Văn hóa xăm mình đã xuất hiện từ rất lâu, ở cả phương Tây và phương Đông. Tuy nhiên, trong suốt một thời gian dài hình xăm luôn gắn liền với những điều không mấy tích cực, chẳng hạn như: tội phạm, tôn giáo cực đoan hay sự chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên, theo thời gian xăm mình đã được nâng lên một tầm cao mới, bắt đầu được phổ quát và phát triển rộng rãi. Tuy nhiên, nó còn trở thành một môn nghệ thuật đỉnh cao đối với những người đam mê cái đẹp và sự táo bạo.
Văn hóa xăm mình có từ bao giờ
Sự ra đời của hình xăm hiện tại vẫn còn là một dấu chấm hỏi lớn và chưa có lời giải đáp. Tuy nhiên, các nhà khoa học đã tìm ra dấu tích của hình xăm từ da của một số xác ướp đóng băng, có niên đại hàng ngàn năm trước Công Nguyên. Từ đó, nguồn gốc của hình xăm dần dần được vén màn bí ẩn. Vào tháng 10 năm 1991, người ta đã phát hiện xác ướp của một người thượng cổ, có niên đại 5000 năm trước, nằm trong dạng núi giữa hai nước Ý và Áo.
Dường như, ông ta đang đi săn thì bị kẹt trong trận bão tuyết, trên người thượng cổ này có nhiều hình xăm: một dấu chữ thập ở đầu gối chân trái và đường thẳng dài 15 cm dọc theo bụng và nhiều đường song song chạy xuống mắt cá chân, người ta đặt tên cho ông là Otzi. Thời điểm đó, không ai biết chính xác hình xăm trên người của Otzi có nghĩa là gì.
Tuy nhiên, người ta biết chắc rằng tục xăm mình xuất hiện cách đây hàng chục ngàn năm, tồn tại song song với nhiều nền văn minh nhân loại. Sau này, ở Ai Cập Peruvian, các nhà khoa học cũng đã phát hiện hình xăm trên xác ướp có niên đại 2000 năm trước Công Nguyên. Chính vì vậy, các nhà sử học cho rằng: sự ra đời của hình xăm có thể xuất phát từ người Hy Lạp, người Anh cổ và người Đức cổ.
Còn ở những nước Á Đông, dấu tích của việc xăm mình cũng được phát hiện từ rất sớm, ở Nhật Bản hoạt động xâm mình đã có từ thời kỳ Chormone – thuở sơ khai nhất của nước này. Tại Trung Quốc, người ta cũng khai quật được những dấu tích đầu tiên của hình xăm trên cơ thể người sống vào khoảng năm 297 sau Công Nguyên.
Ở Việt Nam, nhà sử học Ngô Sĩ Liên có ghi chép trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: bấy giờ- tức thời Hùng Vương, dân ở rừng núi thấy cá tôm, thường tụ họp ở sông ngòi, rủ nhau bắt cá để ăn, thường bị thuồng luồng làm hại.
Vua bèn sai mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình, từ đấy giống thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa, tục người vẽ mình bắt đầu từ đấy. Hoạt động đó cứ tồn tại như thế trong nhiều nền văn hóa khác nhau. Cho tới năm 1769, các thủy thủ của thuyền trưởng James và sau đó là thủy thủ của bá tước người Pháp Paul đã bị mê hoặc bởi nghệ thuật tattoo lạ mắt. Đây là hình thức vẽ trên cơ thể của thổ dân ở các quần đảo Nam Thái Bình Dương, nơi họ đi qua và chính từ tattoo sau này đã trở thành xuất xứ của từ tattoo trong tiếng Anh và Tatouage trong tiếng Pháp, có nghĩa là xăm mình ngày ngay.
Tại sao con người lại xăm mình
Từ xa xưa, xăm mình được con người áp dụng trong nhiều trường hợp khác nhau, đầu tiên là mục đích đánh dấu, theo đó các phạm nhân tội nặng ở thời kỳ phong kiến châu Á thay vì bị xẻo tay hay bị chặt một bàn tay như trước kia thì họ sẽ bị đánh dấu bằng cách xăm chữ lên mặt, cho biết nơi họ đã phạm tội. Từ đó, họ sẽ bị tách khỏi gia đình, cộng đồng và không còn vị trí xã hội.
Còn tại châu Mỹ và châu Âu, tác giả Bryn Mawr, giáo sư sử học tại đại học Zumba đã viết trong quyển “Written on the Body”rằng: “Xăm mình là dấu hiệu của tội phạm có nguồn gốc từ Kinh Cựu Ước. Ngoài ra, hình xăm cũng liên quan đến việc đóng dấu nô lệ và tù binh. Ở Ấn Độ cổ đại, chánh đạo sĩ Palamen sẽ bị xăm hình bộ phận sinh dục nữ, nếu họ phạm tội thông dâm.
Thứ hai, xăm mình cũng cho phép con người khẳng định địa vị xã hội. Vào thế kỷ XIX, giới quý tộc Anh và bậc vua chúa như Nga Hoàng Nicholas đề nghị, các nhà vua Thụy Điển và Đan Mạch đã sang Nhật để xăm hình những con rồng. Nhưng ngược lại, tại Nhật dân xăm mình lại là những thành phần thấp cấp kém trong xã hội lúc đó như: tội phạm, lính cứu hỏa hay người giữa ngựa.
Thứ ba, xăm mình còn trở thành một loại hình văn hóa cộng đồng, chẳng hạn con người thường xăm vật Tổ, để nhận biết những người cùng trong một bộ lạc, cách đánh dấu này phổ biến ở rất nhiều dân tộc ít người. Một số bộ tộc trên thế goo đánh dấu sự trưởng thành của mỗi thiếu niên bằng nghi lễ xăm mình sau chuyến đi săn thành công đầu tiên. Phụ nữ được xăm trong nghi lễ dậy thì, ai chưa xăm được coi là không có thần sắc và chưa sẵn sàng để kết hôn.
Thứ tư, xăm mình còn là phương cách chữa bệnh tại eo biển Bering, nhà dân tộc học Golden từng gặp nhiều người ở đảo với vết xăm ở gò má và thái dương, đó là những sẹo nhỏ, sau khi người ta châm gia hút máu độc. Tại Alaska hiện vẫn còn tục chích da để hút máu độc cho vài căn bệnh, dân Eskimo cũng có cách chữa tương tự, khi bị đau mắt, họ chích da ở dưới mắt để lấy máu.
Đặc biệt, những hình xăm còn dùng để phục vụ cho những nghi lễ chuyển giao, là biểu tượng của niềm tin tâm linh, sùng bái tôn giáo, lông bộ đạo, là sự trang hoàng cho lòng dũng cảm, những hấp dẫn giới tính, là dấu hiệu của vùng thực, vật đảm bảo cho tình yêu, là bùa hộ mệnh. Thậm chí, ngày nay giới trẻ xăm mình như một xu hướng để khẳng định cá tính.
Các phương pháp xăm mình phổ biến
Mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa khác nhau sẽ có cách xăm hình khác nhau, tạo nên sự đa dạng hóa trong nghệ thuật xăm. Ở miền Bắc và miền Nam, nước Mỹ nhiều bộ lạc gốc Ấn Độ thường tạo nên hình xăm trên cơ thể hoặc khuôn mặt bằng cách châm chích đơn giản trên da. Còn một số bộ lạc ở California, sẽ kết hợp màu sắc vào các vết trầy xước, tạo lên hình thù đặc biệt.
Trong khi đó, nhiều bộ lạc Bắc Cực và cận Bắc Cực chủ yếu là người Inuit và một số người dân ở miền Đông Siberia lại sử dụng sợi nước được phủ màu sắc, xuyên vào da để xăm mình. Còn những người Maori của New Zealand thì nổi tiếng thế giới trong việc áp dụng kỹ thuật cắt gỗ để tạo hình xăm. Đến cuối thế kỷ XIX, hình xăm vẫn được tạo ra bằng cách tim mực vào lớp chân bì của da.
Phương pháp này được thực hiện bằng việc sử dụng 1 cây kim nhỏ gắn liền với công cụ cầm tay, các công cụ sẽ di chuyển mũi kim lên xuống với tốc độ hàng trăm lần mỗi phút, chích vào da với khoảng cách 1mm, lớp mực khi được tiêm vào da dưới sự thay đổi của các biểu bì. Theo thời gian, thì lớp mực sẽ nhạt dần, tạo thành màu cố định, theo người xăm đến suốt cuộc đời.
Tuy nhiên, việc xăm hình thủ công mất khá nhiều thời gian và đòi hỏi chị nâng cao, cần sự thành thục, chính xác tuyệt đối. Do đó, Samuel O’Reilly đã phát minh ra chiếc máy xăm hiện đại vào năm 1891. Máy được cấu tạo gồm: dụng cụ nhỏ bằng kim loại được bố trí theo chiều thẳng đứng, có khả năng đâm thủng da ở tốc độ từ 50 đến 3000 lần mỗi phút. Chính vì vậy, việc xăm mình đã trở nên nhanh chóng và chính xác hơn.
Rũ bỏ định kiến, phát triển thành môn nghệ thuật
Mặc dù, hình xăm đã xuất hiện từ lâu, ở nhiều nền văn hóa khác nhau nhưng đến tận đầu thế kỷ XX, xăm mình vẫn chưa trở nên phổ biến trong văn hóa đại chúng. Lý do là bởi vì có nhiều quan niệm cho rằng: những hành vi gây tổn hại đến nguyên vẹn của cơ thể, như việc xăm mình là điều cấm kỵ hoặc tội lỗi.
Chẳng hạn như Nho giáo, một trong những tư tưởng lớn tại Trung Quốc nói riêng và Á Đông nói chung cho rằng: thân xác con người là thứ quý báu được cha mẹ ban cho và việc một người xâm phạm hoặc hủy hoại thân thể là việc làm trái với đạo hiếu, là vi phạm luân thường đạo lý. Quan niệm của đạo Cơ Đốc cũng không mấy khác biệt.
Do sự mâu thuẫn của hình xăm với các hệ thống lý luận lý tưởng đương thời nên cách nhìn của phần đông thành viên trong xã hội dành cho hình xăm dần trở nên tiêu cực hơn. Dưới triều đại nữ hoàng Victoria tại Anh, phần đông dân chúng vẫn có ác cảm với những hình vẽ ở trên cơ thể. Lúc này, hình xăm thường gắn liền với giới tội phạm và những kẻ bị xã hội quay lưng.
Họ ghét bỏ hình xăm đơn giản vì chúng chả có bất kỳ ý nghĩa gì ngoài việc tự làm đau đớn chính bản thân. Năm 1936, tạp chí Life thống kê: có chỉ khoảng 6 phần trăm người dân xăm mình nhưng đa phần tập trung là các nghệ sĩ biểu diễn rạp xiếc hay trong các kỳ lễ hội kỳ dị được tổ chức.
Đến sau thế chiến thứ 2, XĂM mình được cho là nguy hiểm, do sự bùng phát của căn bệnh viêm gan truyền nhiễm. Mặc dù, các cửa hàng đều trang bị những công cụ và thiết bị khử trùng nhưng với sự lan truyền thông tin của báo chí.
Việc xăm mình bị coi là nguyên nhân truyền nhiễm và lây lan của dịch bệnh. Chính vì vậy, các cửa hàng xăm hầu hết đã bị đóng cửa và trở thành loại hình kinh doanh bất hợp pháp. Phải đến năm 1960, mọi người mới có cái nhìn tích cực hơn về xăm mình. Thời kì này, Lyle Tuttle- một người đàn ông đẹp trai, quyến rũ với kỹ năng xăm mình điêu luyện, đã đưa nghệ thuật xăm mình sang trang mới. Ông nổi tiếng với câu nói: hình xăm luôn dành cho tất cả mọi người và đối với một số người hình xăm sẽ mang lại những hiệu quả tích cực.
Cũng kể từ đây, xăm mình dần rũ bỏ định kiến. Trong thời kỳ này, người ta bắt đầu nhìn thấy nhiều người xăm mình hơn. Thậm chí, các ca sĩ, đặc biệt là các rapper, diễn viên hay các vận động viên thể thao cũng bắt đầu tạo cho mình những hình xăm để thể hiện cá tính.
Những thập niên sau đó, xăm mình thậm chí còn được nâng tầm lên thành môn nghệ thuật với sự cải tiến về hình thức xăm và các hình xăm cũng trở nên đa dạng hơn, nghệ thuật hơn. Lúc này, không chỉ có người nổi tiếng mà những người bình thường, thậm chí là cả nhân viên văn phòng cũng bắt đầu sở hữu cho mình một hình xăm như việc đón đầu xu hướng.
Thậm chí, đến nay nghệ thuật xăm mình đã được phổ biến tới mức, có cả những cuộc thi hay cả lễ hội dành riêng cho những tín đồ đam mê xăm mình. Theo một báo cáo của Positional, có tới 36 phần trăm người trẻ tại Mỹ trong độ tuổi 18 đến 25, có ít nhất 1 hình xăm. Theo News and World report, xăm mình đã trở thành một ngành công nghiệp phát triển nhanh thứ 6 tại nước Mỹ.
Tuy nhiên, thành thật mà nói dù nghệ thuật xăm mình đã được phát triển, thế nhưng không phải xã hội nào cũng chấp nhận việc xăm hình. Ở một khía cạnh nào đó, vẫn còn số đông phản bác, cho rằng xăm mình là điều không tốt, là hạ phẩm giá của con người và thể hiện những điều tiêu cực.