Thiệu Trị, vị hoàng đế anh minh, bình lặng kiến thiết triều Nguyễn. Kế thừa những di sản do vua cha Minh Mạng để lại, cộng với việc có một góc nhìn mới về thời đại. Thiệu Trị đã giúp cho Đại Nam giữ vững đà phát triển ổn định. Ông nổi tiếng là vị vua “Kính thiên, pháp tổ, nhân chính và ái dân”. Xứng đáng là một trong những cái tên nổi bật nhất thời nhà Nguyễn. Tuy nhiên, do chỉ biết kế thừa mà không thể đưa ra một chính sách đột biến nào, còn thêm sự lúng túng trước bối cảnh nhân tâm trong nước bất phục. Các nước Xiêm La, Pháp đánh liên tục, quấy nhiễu. Tất cả trở thành, hồi chuông cảnh cáo cho sự suy vong của đất nước sau này.
Niềm hy vọng của hoàng tổ mẫu
Thiệu Trị huý là Nguyện Phúc Dung, sau cải thành Nguyễn Phúc Miên Tông. Khi lên ngôi, lại đổi thành Nguyễn Phúc Truyền. Ông sinh ngày 11 tháng 05 âm lịch năm đinh mão, tức 16 tháng 6 năm 1807. Là hoàng trưởng tử của vua Minh Mạng. Mẹ là tá thiên nhân hoàng hậu Hồ Thị Hoa. Mười ba ngày sau khi sinh hạ Miên Tông, bà Hồ Thị Hoa qua đời, nên ông được hoàng tổ mẫu Nhân Tuyên Hoàng thái hậu đích thân chăm sóc và nuôi dưỡng. Những năm đầu Minh Mạng, hoàng trưởng tử Miên Tông đến chí thiện trường để học tập.
Năm 1830, ông được vua cha phong làm trường khánh công. Năm 1837, ông kiêm nhiếp chức tôn nhân phủ, tạ tôn chính, trông coi các việc trong hoàng thất. Tuy là con trưởng, nhưng lúc đầu Miên Tông không được vua cha lựa chọn kế vị. Bấy giờ, có bà hiền phi Ngô Thị Chính được vua Minh Mạng rất sủng ái, định chọn con cả của hiền phi làm thái tử.
Tin đến tai thái hậu, bà liền gọi vua đến của trách, vua vì chữ hiếu nên bỏ ý định trước đó. Xác lập Miên Tông làm thái tử theo ý của mẹ. Bởi vậy, Miên Tông đặc biệt quý trọng bà nội. Sau này, ông còn cho xây tháp phước duyên cao bảy tầng tại khuôn viên chùa Thiên Mụ để cầu cho bà được sống thọ.
Năm Minh Mạng thứ 21, 1840 vua chơi rút các con thú bằng vàng để ban thưởng cho các hoàng thân anh em, các hoàng tử cung và,hoàng tử chưa được phong tước. Trương khánh công Miên Tông được ban cho một con voi bằng vàng nặng 21 lạng và đặc biệt là một con rồng có cánh bằng vàng nặng 7 lạng. Báo hiệu rằng, ngôi vua giờ đã có chủ.
Vua Minh Mạng qua đời ngày 20 tháng 1 năm 1841. Nguyễn Phúc Miên Tông theo di nguyện nối, ngôi lấy niên hiệu là Thiệu Trị. Lên ngôi ngày 11 tháng 2 năm 1841, ở điện Thái Hòa khi đó ông 34 tuổi. Sau khi, được trao cho ngôi báu Thiệu Trị đã đưa ra quan điểm trị nước của mình bằng 4 bài châm gồm có: “Kính thiên, pháp tổ, cần chính và ái dân”.
Ông vua “Kính thiên, pháp tổ, cần chính và ái dân”
Phần nhiều sử sách nhận định, vua Thiệu Trị là một người hiền hòa, siêng năng, cần mẫn nhưng không năng động như vua cha. Mọi định chế pháp luật, hành chính, học hiệu,điền địa và binh bị đều được sắp đặt khá quy củ từ thời Minh Mạng.
Thiệu Trị chỉ áp dụng theo, ít có sự cải cách và thay đổi. Lúc bây giờ, có Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, Võ Văn Nhại, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Tiếp ra sức phò tá. Vừa lên ngôi, thấy tình hình Chân Lạp bất ổn, dân Chân Lạp chống đối quan lại Đại Nam cai trị.
Người Khmer liên tiếp nổi loạn ở Nam Kỳ, nhưng có lời câu của Tạ Quang Tự xin bỏ đất trấn Tây Thành, rút quân về giữ An Văn, vua liền nghe theo. Ngoài ra, Thiệu Trị cũng cho bỏ luôn huyện Khoản Biên và huyện Khai Biên, đây thuộc tỉnh Kampot. Nước Xiêm hùng mạnh thay thế Đại Nam và bảo hộ nước cao nguyên.
Nhân đó, tiếp tục gây hứng xúi giục người dân nổi loạn trong vùng đất Nam Kỳ. Năm 1842 quân Xiêm nhân cơ hội Nam Kỳ có loạn tiến đến tỉnh Vĩnh Tế dẹp phá rối Đại Nam dẫn đến chiến tranh kéo dài. Năm 1845, quân Đại Nam thắng lớn tiến công truy đuổi quân Xiêm ngược lên Cao Miên.
Vua Xiêm kí hiệp ước, chấp nhận cùng báo hộ nước Cao Miên, rút quân khỏi cao nguyên. Đã làm giảm sức ép về ngân sách nhưng nó lại đặt ra nhiều vấn đề mới về an sinh. Để giải quyết trong suốt thời gian trị vì Thiệu Trị liên tục giảm thuế nông nghiệp, thuế thân, thuế chợ, hay thuế thuyền buôn nước ngoài rất hợp lý hợp tình.
Kế thừa lực lượng thủy quân của hai triều Gia Long và Minh Mạng, Thiệu Trị tiếp tục củng cố toàn diện, từ hoàn thiện quy chế tổ chức đến đổi mới trang thiết bị cho đội thủy quân triều Nguyễn.
Nhà vua chú trọng đến việc tăng cường lực lượng thủy quân tại phía địa phương ven biển hoặc tại các vùng biển khẳng định trọng yếu như Đà Nẵng, Gia Định. Hàng tháng, phải tái diễn 1 đến 2 lần, phải đi tập huấn ở Trung Quốc và các nước trên biển Đông.
Thiệu Trị là ông vua cho mở khoa thi võ đầu tiên của triều Nguyễn vào tháng 6 năm 1846, tại đài Trần Bình. Chọn ra 51 người đỗ đạt, là những tiến sĩ ,võ đầu tiên của nhà Nguyễn: như Phạm Đức Thắng, Lê Ủy, Chương Tín, Nguyễn Đạt. Nhà vua sau đó, quyết định thi võ ba năm một lần, bởi muốn trị nước phải có cả văn lẫn võ.
Chính nhờ việc đầu tư cho hải quân mà vào thời kỳ này Đại Nam đã gần như làm chủ công nghệ hơi nước của phương Tây. Năm 1844, tham chi Đào Trí Phú đi phương Tây mua một chiếc đầu máy hơi nước, trị giá hơn 280.000 quan tiền. Đặt tên thuyền là Thiệu Vi sau đó Thiệu Trị cho tháo chiếc thuyền máy in phi mua từ thời Minh Mạng.
Để xem xét rồi đóng một chiếc thuyền máy vân phi mới. Đồng thời, đóng một chiếc nhỏ hơn tên gọi là hương phi. Tuy nhiên, vấn đề nan giải nhất kéo dài trong suốt lịch sử nhà Nguyễn, truyền đạo thiên chúa và người Pháp.
Thiệu Trị không thể giải quyết nổi khi ông lên ngôi thì việc cấm đạo tuy có bớt đi, nhưng triều đình vẫn không có cảm tình với thiên chúa giáo. Những nhóm sĩ, ngoại quốc vẫn còn bị giam ở Huế. Quân đội Pháp đại diện cho cộng đồng thiên chúa giáo nhiều lần phải tới thương nghị.
Năm 1847, Pháp sai người đem 2 chiến thuyền vào Đà Nẵng xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho những người trong nước được tự do theo đạo. Trong quá trình thương lượng, quân Pháp thấy thuyền của Đại Nam đóng gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân đắp đồng ủy.
Nghĩ rằng là có âm mưu nên bắn hạ những thuyền ấy rồi rút ra biển. Vua Thiệu Trị tức giận, ra vụ cấm người ngoại quốc vào giảng đạo. Và trị tội những người trong nước theo đạo, những sự kiện này đã đẩy quan hệ Việt-Pháp đi lên những nấc thang căng thẳng mới.
Vị văn sĩ tài ba
Thiệu Trị là một nhà thơ chữ Hán bậc thầy, được các danh sĩ đương thời ở trong nước lẫn Trung Quốc đánh giá cao. Thơ ông mang nội dung cao thượng, phản ánh đúng phong cách và tư duy của một bậc đế vương.
Thấm ngừng triết lý nho học luôn luôn nghĩ đến dân, đến nước. Trong từ dũ ban hành vào tháng 7 năm 1846, vua đã nói: Các bài thơ trong đó đều là những lời nhắc nhở, khuyên răng cung kính cố gắng.
Thật muốn từ nhà rồi đến nước cả quan và dân vừa dạy vừa làm. Mong cho nước được thịnh trị. Chỉ tính riêng trong chuyến Bắc tuần năm 1842, nhà đã làm 173 bài thơ. Theo tài liệu thống kê, qua 10 tác phẩm còn để lại của vua Thiệu Trị ông đã làm khoảng 4.000 bài thơ đủ các thể loại và hàng trăm bài văn xuôi dài, ngắn khác nhau.
Tọa lạc tại số 3 Lê Trưởng thành phố Huế, Điện Long An là một trong những công trình tiêu biểu của kinh thành Huế xưa. Một trong những nét đặc sắc của cung điện này là nó được trang trí bằng những bài thơ chữ Hán hay nhất của vua Thiệu Trị.
Nổi tiếng nhất trong số đó là hai bài thơ “Vũ trung xuân thủy tức non nước trong mưa” và “Phước viên văn hội hương dạ mạnh âm tức là đêm thơ ở phước vinh”. Được khảm xà cừ trên hai bức vách gỗ của cung điện, mỗi bài thơ tổng cộng với 56 chữ, bằng số trưởng một bài thơ thất ngôn bát cú.
Đi tìm người kế vị-bài toán khó của Thiệu Trị
Điều khổ tâm lớn nhất của Thiệu Trị là người con trưởng hoàng tử Bảo Long vừa thiếu tài năng với thiếu đức độ. Năm 1847, vua bệnh nặng gọi các đại thần: Trương Đăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương vào chầu và duy huấn.
Hồng Bảo tuy lớn nhưng ít học ,tham chơi mê bài bạc, nối nghiệp không được. Con thứ hai là Hồng Phúc thông minh, ham hoc đáng nối nghiệp vua. Hôm trước ta đã phê vào tờ di chiếu để lại trong lâm đồng, các người phải kín nơi đó, đừng trái lệnh ta.
Sau đó nhà vua cho gọi Phúc Tuy Công Hồng Ngậm vào điện trao ấn kiếm. Hồng Bảo nghe tin vội vào cung điện đến bên giường vua quy xuống mà tâu: “Thánh thượng hứa truyền ngôi cho con, nay con phạm tội bất hiếu xin ơn trời bể mà tha cho”. Thiệu Trị vẫn không đổi ý, sai Phạm Thế Lịch cùng võ văn giải điện Hồng Bảo ra hậu cung cấm cố.
Ngày 4 tháng 11 năm 1847, vua Thiệu Trị mất các đại thần văn võ, bá quan đọc chiếu truyền ngôi cho Phúc Tuy Công Hồng Ngậm, lấy niên hiệu là Tự Đức. Thật thể ngờ rằng quyết định nhường ngôi đó về sau lại trở thành sai lầm lớn nhất của vua Thiệu Trị. Việc bỏ trưởng lập thứ đã gây nên rạn nứt trong dòng tộc dẫn đến việc Hồng Bảo làm phản và bị Tự Đức bức chết.
Không chỉ thế, trong suốt 35 năm trị vì của mình Tự Đức cũng thể hiện mình là một ông vua bị đặt sai chỗ. Tuy cũng là một ông vua có đạo đức tốt,tài giỏi về mặt thơ ca giống như vua cha. Nhưng chính bản tính nhu nhược hay do dự của Tự Đức đã tạo cơ hội khiến cho thực dân Pháp lợi dụng để thôn tính nước ta sau này.
Xương Lăng nơi an nghỉ của hoàng đế Thiệu Trị
Mặc dù, tỏ ra là một người rất am tường về phong thủy nhưng đến lúc mất bản thân Thiệu Trị không kịp tìm ra cho mình một nơi an nghỉ lý tưởng. Thế là vào ngày 11 tháng 2 năm 1848, sau khi tham khảo ý kiến, vua Tự Đức sai đại thần Vũ Văn Vai đứng ra trông coi công việc xây dựng Xương Lăng làm nơi yên nghỉ cho tiên đế.
Vị trí lăng nằm giữa lưng vào núi Thuận Đạo ở địa phận làng Tứ Chánh xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy. Cách kinh thành Huế chừng 8km, trước đó Thiệu Trị đã căn dặn rằng chỗ rất làm sân lăng nên chọn chỗ bãi cao, chân núi cận tiện để tân binh dễ làm công việc. Còn đường ngầm quan tài đến huyệt bắt đầu từ hiếu lăng nên bắt chước mà làm.
Còn niệu lượng lượng mà xây cho kim ước không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân. Thế nên quá trình xây cất xương lăng diễn ra nhanh chóng và gấp rút. Tính từ ngày bắt đầu xây dựng là 11 tháng 2 năm 1848, đến ngày dựng văn bia hoàn tất. Lăng Thiệu Trị đã được thi công trong vòng chưa đầy 10 tháng, do tuân thủ nghiêm các nguyên tắc phong thủy của bậc thầy sư Tả Ao.
Lăng Thiệu Trị có những nét riêng so với lan cẩm cách vui tiền nhiệm và kế vị. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc. Một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn. Một nét riêng khác là lăng không có la thành bao quanh, chỉ có những cánh đồng lúa, những vườn cây ở chung quanh.
Tạo cho cảnh quan lăng Thiệu Trị có sự thanh thoát và yên bình. Có thể nói, tổng thể kiến trúc của lăng Thiệu Trị là sự kết hợp và chọn lọc kiến trúc của lăng Gia Long và Minh Mạng. Xương lăng giống với Thiên Thọ lăng ở chỗ đều không có la thành. Khu vực Nam bộ và tẩm điện biệt lập song song với nhau. Xương lăng lại giống như hiếu lăng ở kích thước mai táng và xây dựng.
Toại đạo bổ thành hình tròn với hồ Minh Thúy hình bán nguyệt bao bọc ở phía trước. Lăng gồm hai khu vực lăng và tẩm. Phần lăng nằm ở bên phải, phía trước có hồ Nhuận Trạch, ngay sau hồ là nghi môn môn bằng đồng, dẫn vào bãi đình rộng lớn.
Hai hàng tàng đá ở hai bên tả hữu của sông là tiêu biểu của nghệ thuật tạc tượng đầu thế kỷ 19 ở Huế. Tiếp theo là lầu Đức Hinh ngự trên một quả đồi thấp hình mai rùa. Đứng trên lầu phía sau sẽ thấy một cảnh quan tuyệt đẹp.
Có lẽ do yếu tố địa lý không cho phép kiến tặng Xương Lăng theo một trục dọc như Hiếu lăng. Nên khu vực điện thờ được xây dựng riêng cách lâu đức kinh 100 mét về phía trái. Chính giữa điện Biểu Đức nơi thờ cúng bài vị của vua và hoàng hậu Từ Dụ.
Trong chính điện trên những cổ duyên ở bộ máy và ở cữ hồng trạch có hơn 450 chữ chạm khắc. Các bài thơ có giá trị về văn học và giáo dục các công trình phụ quy quần trung quan điện Biểu Đức càng tô thêm vẻ cao quý của chính điện.